Tập tục nhai trầu châu Á
Tục nhai trầu đã phổ biến khắp các vùng Đông và Nam Á xưa nay. Bằng chứng rõ nhất và lâu đời nhất về tục ăn trầu được giới khảo cổ thừa nhập từ một hố chôn ở địa điểm Hang Duyong, đảo Palawan, Philippines có niên đại từ năm 4600 trước công nguyên.
Trong di tích khảo cổ đó, hàm răng của bộ xương người bị ố vàng, đặc trưng của những người nhai trầu. Ngôi mộ cũng bao gồm vỏ sò Anadara được sử dụng làm bình chứa vôi, một trong số đó vẫn còn chứa vôi bên trong. Các địa điểm chôn cất ở Bohol (Philippines) có niên đại từ thiên niên kỷ thứ nhất sau Công nguyên cũng cho thấy những vết màu đỏ đặc trưng của thói quen nhai trầu.

Các nhà khoa học tin rằng, tục nhai trầu xuất phát từ Philippines, từ đó lan ra Đài Loan và các quốc đảo ở Thái Bình Dương thông qua quá trình buôn bán và di cư. Theo báo cáo của Tổ chức Nông lương Liên hợp Quốc, năm 2017, sản lượng trầu cau trên thế giới là 1,3 triệu tấn, trong đó Ấn Độ cung cấp 54% tổng sản lượng. Các nhà sản xuất hàng đầu khác như Myanmar, Indonesia , Bangladesh và Đài Loan cộng lại đóng góp 38% tổng sản lượng thế giới.
Quốc gia | Sản lượng (tấn) – 2017 |
Ấn Độ | 723000 |
Myanmar | 147524 |
Indonesia | 136837 |
Bangladesh | 119039 |
Đài Loan | 102165 |
Toàn thế giới | 1337115 |
Ăn trầu là thường phổ biến là nhai hỗn hợp gồm hạt cau và lá trầu. Đây là một nét sinh hoạt văn hóa quan trọng và phổ biến ở nhiều quốc gia Nam Á , Đông Nam Á , Đông Á và Châu Đại Dương ngày nay, bao gồm Pakistan , Maldives , Ấn Độ , Nepal , Sri Lanka , Bhutan , Bangladesh , Miến Điện ( Myanmar ), Lào , Thái Lan , Brunei , Malaysia , Indonesia , Campuchia , Việt Nam, Philippines , Đài Loan , Trung Quốc , Palau , Yap , Guam , Papua New Guinea , quần đảo Solomon và Vanuatu.

Trung Quốc – cấm ăn trầu sẽ được đưa vào luật
Mới đây, ca sĩ người Trung Quốc Fu Song (Phó Tùng) mới 36 tuổi đã qua đời vì bệnh ung thư miệng, khiến vấn đề hạn chế, thậm chí cấm ăn trầu tại Trung Quốc một lần nữa thu hút sự quan tâm của mọi tầng lớp xã hội. Trước tiếng nói của dư luận, cơ quan giám sát hành chính nhiều nơi tại Trung Quốc đã có những biện pháp tăng cường giám sát việc mua bán trầu cau. Tuy nhiên, do chưa có quy định cụ thể về trầu cau trong luật và các quy định hiện hành nên các biện pháp giám sát hành chính này gặp phải vấn đề pháp lý do không đủ cơ sở pháp lý.

Ví dụ, vào ngày 19 tháng 9, Cục Quản lý thị trường thành phố Nghĩa Ô, tỉnh Chiết Giang (Trung Quốc) đã thông báo cho các thương gia thông qua ứng dụng WeChat rằng tất cả các mặt hàng trầu cau sẽ được lấy ra khỏi kệ và không nên bán. Các nhân viên liên quan cho biết họ đã nhận được thông báo từ chính quyền cấp trên rằng “các cơ sở kinh doanh thực phẩm ở tỉnh Chiết Giang không được phép bán các sản phẩm trầu cau mà không có bao bì và nhãn mác thực phẩm” và nói rằng thông báo này về cơ bản là áp dụng vĩnh viễn chứ không chỉ trong thời gian ngắn.

Tuy nhiên, ngày hôm sau, Cục Quản lý thị trường Nghĩa Ô đã làm rõ rằng họ chưa nhận được thông báo dỡ bỏ sản phẩm trầu cau khỏi các kệ hàng của thành phố. Việc phản ứng đính chính nhanh chóng nói trên từ Cục Quản lý thị trường Nghĩa Ô cho thấy các cơ quan quản lý đang thận trọng trong việc cấm bán trầu cau, và lẽ ra họ phải nhận thấy chưa có cơ sở pháp lý nào để cấm bán trầu cau. Trên thực tế, việc cấm hoàn toàn hoặc hạn chế nghiêm ngặt các sản phẩm trầu cau hiện nay là thiếu cơ sở pháp lý cần thiết.

Cho đến nay, không có luật, quy định hoặc quy tắc đặc biệt nào ở cấp quốc gia áp dụng cho sản phẩm trầu cau; ở cấp địa phương, ngoại trừ một số nơi (chẳng hạn như thành phố Hạ Môn), không có quy định địa phương hoặc quy định của chính quyền địa phương về điều này. Theo yêu cầu của quản lý theo pháp luật thì hành động mang tính hành chính của các cơ quan hành chính phải dựa trên cơ sở pháp luật. “Quy phạm nghĩa vụ”. Việc cơ quan quản lý hành chính cấm bán các sản phẩm trầu cau thông qua các thông báo nội bộ hoặc các văn bản quy phạm khác là một hành vi không phù hợp về mặt pháp lý. Ở một mức độ nào đó, chính việc thiếu điều khoản luật đặc thù này đã dẫn đến việc cơ quan quản lý hành chính không thể quản lý và hạn chế sản phẩm trầu cau một cách hiệu quả chứ chưa nói đến cấm hoàn toàn.

Trong trầu có chứa chất arecoline, ephedrine và các chất khác, khiến người ăn bị kích thích sau khi ăn, sau khi ăn lâu rất dễ bị phụ thuộc và gây nghiện. Ngay từ năm 2003, Tổ chức Y tế Thế giới đã đưa trầu cau vào danh sách các chất gây ung thư loại I; năm 2017, trong danh sách các chất gây ung thư do Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Nhà nước Trung Quốc công bố, trầu, cau được xếp vào danh sách loại một các chất gây ung thư. Các nghiên cứu khoa học liên quan đã chỉ ra rằng các sản phẩm từ trầu cau là tác nhân trực tiếp dẫn đến ung thư miệng, và tỷ lệ mắc ung thư miệng ở những vùng ăn trầu cau cao hơn nhiều so với những vùng khác. Ví dụ, tại Hồ Nam, một tỉnh lớn về sản xuất và tiêu thụ trầu cau, tỷ lệ mắc bệnh ung thư miệng cao hơn 20 lần so với mức trung bình của cả nước.

Đối với một sản phẩm được chính quyền Trung Quốc xem là có hại cho sức khỏe cộng đồng như vậy, cần phải điều chỉnh và hạn chế thông qua luật đặc thù, ngay cả khi thực tế khó có thể cấm hoàn toàn việc sản xuất và kinh doanh sản phẩm đó. Trên thực tế, nhiều nước trên thế giới đã hạn chế, thậm chí cấm các sản phẩm từ trầu, chẳng hạn ở Thổ Nhĩ Kỳ, Singapore, Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất, Canada và các nước khác, trầu cau được coi là ma túy và bị cấm. Hiện nay, kinh tế, xã hội của Trung Quốc đang phát triển và bước sang một thời kỳ mới, Đại hội đại biểu toàn quốc Đảng Cộng sản Trung Quốc lần thứ 19 đã đề ra “tuân thủ công tác phòng ngừa, thực hiện các chiến dịch y tế yêu nước có chiều sâu, vận động lối sống lành mạnh và văn minh, phòng ngừa và kiểm soát các bệnh chính ”. Do đó, cần có quyết định kịp thời và có pháp luật đặc thù về trầu cau.

Mức độ pháp lý dựa trên tính phổ biến của các sản phẩm trầu và thực tế trầu cau còn là một ngành công nghiệp có giá trị thương mại hàng chục tỷ đô la, liên quan đến nhiều doanh nghiệp sản xuất, lao động có việc làm và thậm chí cả sự phát triển kinh tế của từng nơi. Để hạn chế, thậm chí cấm một cách có hiệu quả việc sản xuất và tiêu thụ trầu cau, nên xây dựng luật hoặc quy định hành chính ở cấp quốc gia để quy định cụ thể việc này.
Với luật pháp và các quy định hành chính làm cơ sở, các cơ quan quản lý hành chính liên quan có thể thực hiện giám sát nghiêm ngặt và hiệu quả đối với việc sản xuất và kinh doanh các sản phẩm trầu cau theo quy định của pháp luật. Đây cũng là ý nghĩa của chủ thể quản lý theo pháp luật.
Tác giả: Trịnh Tiến Đạt
Bài viết được lược dịch và bổ sung từ bản gốc bài viết của Cai Lewei theo đường dẫn: http://www.eeo.com.cn/2022/0921/558999.shtml