Các cuộc chiến tranh kinh hoàng nhất của thế kỷ 20 đã diễn ra ở châu Á, từ những trận chiến tại Thái Bình Dương trong Thế chiến II, chiến tranh trên Bán đảo Triều Tiên, cho đến chiến tranh Đông Dương mới kết thúc gần đây.
Ngược lại, thế kỷ 21 cho đến nay chủ yếu là thời kỳ hòa bình và là cơ hội cho tăng trưởng kinh tế. Hàng trăm triệu người châu Á đã thoát khỏi đói nghèo và một tầng lớp trung lưu thịnh vượng đã bắt đầu phát triển trên hầu hết châu lục.
Tuy nhiên, những căng thẳng gần đây giữa Trung Quốc và Đài Loan cho thấy tiềm năng khiến các cuộc xung đột “vốn đã đóng băng” ở châu Á trở nên nóng bỏng trở lại. Những cuộc đối đầu âm ỉ kéo dài, một lần nữa, có thể trở thành những cuộc xung đột cạnh tranh quyền lực lớn. Kỷ nguyên bá chủ toàn cầu không thể thách thức của Mỹ đang bị lung lay, trong khi Trung Quốc đang tìm cách thách thức hiện trạng ở nhiều vùng biên giới trên đất liền và biển đảo. Việc Mỹ rút quân một cách hỗn loạn khỏi Afghanistan và Nga xâm lược Ukraine đã báo hiệu rằng một kỷ nguyên cạnh tranh địa chính trị có thể đang diễn ra, trong đó Washington liệu có còn khả năng hoặc sẵn sàng đảm bảo một trật tự ổn định?

Giữa sự trỗi dậy của kỷ nguyên mới về cạnh tranh địa chính trị, Nikkei Asia đã cân nhắc khả năng xảy ra các cuộc xung đột lớn trong 5 năm tới và đưa ra kết quả trong bài báo sau. Trong số 6 cuộc xung đột lớn có khả năng xảy ra cao nhất ở châu Á, hầu hết đều bắt nguồn từ những mâu thuẫn có từ thời Chiến tranh Lạnh và có thể bùng phát bởi một chu kỳ căng thẳng mới giữa phương Đông và phương Tây. Tuy nhiên, một số cuộc xung đột trong 6 cuộc xung đột tiềm tàng này là các mâu thuẫn mới. Tất cả đều có khả năng xảy ra cao hơn bởi sự thay đổi cán cân quyền lực, bởi sự ngờ vực gia tăng và bởi sự cứng nhắc về ý thức hệ.
TRUNG QUỐC – ĐÀI LOAN
Khi bà Nancy Pelosi, chủ tịch Hạ viện Hoa Kỳ, đến thăm Đài Loan vào tháng 8/2022, phản ứng quyết liệt của Trung Quốc khiến các nước trong khu vực không khỏi lo lắng. Bắc Kinh coi chuyến đi là một thách thức trực tiếp đối với một hiện trạng mong manh đã được hình thành cách đây 5 thập kỷ với chính sách mập mờ về “Một Trung Quốc” của Hoa Kỳ với tương lai của Trung Quốc và Đài Loan.
Một ngày sau chuyến thăm của bà Pelosi, Trung Quốc đã “bao vây” Đài Loan bằng các cuộc tập trận bắn đạn thật, làm dấy lên lo ngại rằng cuối cùng Bắc Kinh có thể phong tỏa hòn đảo và tìm cách bình thường hóa hành vi gây hấn với hòn đảo này. Bắc Kinh và Washington đã từng chứng kiến các cuộc khủng hoảng liên quan đến Đài Loan trong quá khứ, nhưng các nhà phê bình lo ngại rằng tiền lệ của việc Nga xâm lược Ukraine có thể khiến Trung Quốc tìm cách gây hấn với Đài Loan. Đài Loan, có Hiến pháp, sở hữu lực lượng vũ trang và chính phủ của riêng mình, chưa bao giờ bị cai trị bởi Trung Quốc Cộng sản. Nhưng Bắc Kinh vẫn ầm ĩ tuyên bố Đài Loan là của riêng mình và từ chối loại trừ một cuộc xâm lược bằng vũ trang.

Chen Kuan-ting, Giám đốc điều hành của Tổ chức NextGen (Đài Loan), cho biết: “Có khả năng Trung Quốc sẽ thực hiện các cuộc chiến tranh tài chính và kinh tế trong vài năm tới, và một cuộc tấn công vũ trang cũng có thể xảy ra”.
Ông Chen nói, Đài Loan cần đảm bảo rằng Trung Quốc không có khả năng thực hiện một cuộc tấn công đổ bộ thành công. Ông nói thêm rằng nỗ lực tập thể của Đài Loan với Nhật Bản, Hàn Quốc và Mỹ là chìa khóa để ngăn chặn Trung Quốc. Chen nói: “Chúng ta cần phải làm rõ với Trung Quốc rằng ngay cả một cuộc phong tỏa cũng sẽ dẫn đến các biện pháp trừng phạt nghiêm trọng, làm tê liệt họ.
“Người dân Đài Loan nhận thức rất cao về tình hình nguy hiểm của chúng tôi“
Chen Kuan-ting, CEO của Think Tank Đài Loan NextGen Foundation
Nick Marro, một nhà phân tích của Economist Intelligence Unit, cho biết nỗi sợ hãi của Trung Quốc về việc Mỹ tham gia vào bất kỳ cuộc xung đột nào là “vẫn đủ sức răn đe để ngăn chặn hành động hấp tấp của Trung Quốc”.
“Do đó, chúng tôi vẫn thấy khả năng Trung Quốc xâm lược Đài Loan trực tiếp, có mục đích là tương đối hạn chế trong 5 năm tới.”
“Điều đó nói lên rằng, nguy cơ bùng phát xung đột rộng lớn hơn do một tính toán sai lầm – chẳng hạn như va chạm giữa máy bay chiến đấu Trung Quốc và Đài Loan, hoặc một tên lửa rơi nhầm chỗ – là đáng lo ngại hơn. Mối quan tâm lớn hơn đối với chúng tôi là liệu chúng tôi có thấy mình vô tình bị cuốn vào một cuộc chiến mà không ai mong muốn hay không”, Marro cảnh báo.
Nhà báo Thompson Chau đóng góp phần này.
TRUNG QUỐC – ẤN ĐỘ
Các đỉnh núi cao của dãy Himalaya đã từng là nơi đối đầu giữa Ấn Độ và Trung Quốc trong nhiều thập kỷ. Hai cường quốc đông dân nhất châu Á (và cả thế giới) đã chiến đấu trong một cuộc chiến ngắn ngày vào năm 1962 và kể từ đó quân đội hai nước đã đối đầu với nhau nhiều lần trên khu vực giới tuyến này. Cuộc xung đột kéo dài 2 năm này tập trung vào khu vực phía đông Ladakh của thung lũng Galwan, ở độ cao 5.000m so với mực nước biển. Binh lính của cả hai bên thường không được phép sử dụng súng như một nỗ lực giảm thiểu leo thang căng thẳng, nhưng mọi thứ vẫn vượt quá tầm kiểm soát. Vào mùa hè năm 2020, một cuộc đối đầu trên một tuyến đường cao tốc trở nên tồi tệ với giao tranh tay đôi giữa quân đội Ấn Độ và Trung Quốc. Hai mươi binh sĩ Ấn Độ cùng với bốn binh sĩ Trung Quốc đã chết.

Srikanth Kondapalli, một giáo sư nghiên cứu về Trung Quốc và là hiệu trưởng của Trường Nghiên cứu Quốc tế tại Đại học Jawaharlal Nehru có trụ sở tại New Delhi, cho biết cuộc xung đột lớn hơn giữa Ấn Độ và Trung Quốc trong 5 năm tới là “hoàn toàn có thể.” “Hiện tại, chúng tôi vẫn chưa giải quyết vụ việc ở Galwan” Kondapalli nói thêm, chỉ vào các báo cáo truyền thông và nói rằng Trung Quốc đã chiếm một số lãnh thổ tranh chấp ở Galwan. Ông nói với Nikkei Asia: “Có khả năng xảy ra xung đột giữa Ấn Độ và Trung Quốc [vì điều này]“.
“[Tình hình có thể leo thang] bất cứ lúc nào – ngày mai, ngày kia, trong một hoặc hai năm – bởi vì vụ tranh chấp này vẫn chưa được giải quyết“
Srikanth Kondapalli, giáo sư nghiên cứu Trung Quốc tại Đại học Jawaharlal Nehru, New Delhi
Pankaj Jha, giáo sư về các vấn đề quốc phòng và chiến lược tại Đại học Toàn cầu OP Jindal và là cựu Phó giám đốc Ban Thư ký Hội đồng An ninh Quốc gia Ấn Độ, lạc quan hơn một chút, nói rằng cuộc khủng hoảng Galwan vốn đã có thể phát triển thành một cuộc chiến toàn diện nhưng điều đó đã đã không xảy ra. Ông nói rằng do vậy cả hai bên dự kiến sẽ thực hiện kiềm chế để tránh xảy ra xung đột lớn trong 5 năm tới.
Đồng thời, Jha nói thêm, áp lực đối với Trung Quốc từ các khu vực khác nhau sẽ tăng lên trong tương lai gần, có thể là trường hợp của Đài Loan hoặc Tây Tạng. “Và khi Trung Quốc bị áp lực, họ sẽ làm gì đó dọc theo biên giới. Theo quan điểm này, có khả năng xảy ra một cuộc xung đột hạn chế [với Ấn Độ]. ”
Biên tập viên Nikkei, Kiran Sharma đóng góp phần này.
TRUNG QUỐC – NHẬT BẢN
Vào đầu tháng 8/2022, một nhóm nghiên cứu có trụ sở tại Tokyo đã tiến hành một trò chơi chiến tranh giả định kéo dài hai ngày mô phỏng một cuộc khủng hoảng xung quanh quần đảo Senkaku do Nhật Bản quản lý, mà Trung Quốc cũng tuyên bố chủ quyền và gọi là Điếu Ngư.
Trong mô phỏng, lấy bối cảnh vào tháng 8 năm 2027, 200 tàu đánh cá Trung Quốc đã tiếp cận quần đảo Senkaku. Một số “ngư dân” được trang bị vũ khí, ám chỉ rằng họ là lực lượng dân quân đặc biệt của Trung Quốc. Mọi việc nhanh chóng vượt qua tầm kiểm soát của phía Nhật Bản khi một số tàu đánh cá Trung Quốc đâm vào tàu Cảnh sát biển Nhật Bản, và hàng chục “ngư dân” Trung Quốc đổ bộ lên quần đảo.
Kịch bản đang chuyển từ mối lo ngại tiềm tàng sang mối đe dọa thực tế: Xung quanh vùng biển Senkaku, Trung Quốc đẩy mạnh nỗ lực đe dọa Nhật Bản bằng cách leo thang căng thẳng bằng các hành động tiệm tiến ở mức tối thiểu, một chuyên gia gọi chiến thuật này là chiến thuật “cắt lát salami” (hay còn gọi là chiến thuật “tằm ăn dâu”).
Những nỗ lực rõ ràng của Trung Quốc nhằm giành quyền kiểm soát các đảo từ Nhật Bản thực tế đã bắt đầu vào ngày 8 tháng 12 năm 2008, khi hai tàu của chính quyền Trung Quốc lần đầu tiên đột ngột đi vào lãnh hải của Nhật Bản xung quanh quần đảo Senkaku. Các con tàu này đã neo lại vùng biển này trong 9 giờ đồng hồ, bất chấp cảnh báo nhiều lần từ Lực lượng Bảo vệ Bờ biển Nhật Bản. Chỉ bảy tháng trước đó, Chủ tịch Trung Quốc Hồ Cẩm Đào khi đến thăm Nhật Bản, còn thề thốt là sẽ thúc đẩy một “mối quan hệ cùng có lợi dựa trên các lợi ích chiến lược chung”. Nhưng thực tế là Trung Quốc đã và đang tìm cách thay đổi hiện trạng bằng vũ lực.

Vào tháng 9 năm 2012, Nhật Bản đã quốc hữu hóa quần đảo Senkaku, và kể từ đó các tàu của Trung Quốc đã đi vào các khu vực tiếp giáp xung quanh quần đảo Senkaku mỗi ngày, trừ khi thời tiết xấu. Tàu Trung Quốc đi vào lãnh hải của Nhật Bản với tần suất ba lần một tháng.
Washington không có quan điểm chính thức về chủ quyền quần đảo, nhưng các chính quyền kế nhiệm của Mỹ đã khẳng định rằng quần đảo Senkaku nằm trong hiệp ước an ninh Mỹ – Nhật và sẽ được bảo vệ nếu bị tấn công.
Nobukatsu Kanehara, một cựu quan chức ngoại giao Nhật Bản và là một thành viên của trò chơi chiến tranh, nói rằng mặc dù không thể tưởng tượng được rằng Trung Quốc có thể sẽ gây chiến với Nhật Bản chỉ vì Senkakus, nhưng nếu có xung đột Mỹ-Trung về Đài Loan, thì Trung Quốc chắc chắn sẽ tiến hành đánh chiếm luôn quần đảo Senkaku.
“Trong một kịch bản như vậy, Mỹ sẽ tập trung vào Đài Loan. Nhật Bản sẽ phải nỗ lực rất nhiều để tự bảo vệ quần đảo Senkaku”ông nói.
Phóng viên ngoại giao Nikkei Châu Á, Ken Moriyasu, đóng góp phần này.
BẮC TRIỀU TIÊN – NAM TRIỀU TIÊN
Tổng thống mới ở Nam Triều Tiên và mức độ quân sự hóa ngày càng lớn hơn ở Bắc Triều Tiên đồng nghĩa với tình trạng bùng nổ xung đột
Bốn năm trước, nhà lãnh đạo Bắc Triều Tiên, Kim Jong Un, và Tổng thống Nam Triều Tiên, Moon Jae-In, đã nắm tay nhau và ôm hôn trong một nhà khách bên trong khu phi quân sự ngăn cách giữa hai nước – một hội nghị thượng đỉnh mang tính lịch sử đã giới hạn chính sách của ông Moon theo giảm căng thẳng và tiến tới thống nhất với quốc gia láng giềng gai góc ở phía Bắc.
Sau đó là giai đoạn đại dịch, và thời kỳ cô lập đối với chế độ Bắc Triều Tiên, đã chứng kiến Bình Nhưỡng tăng cường thúc đẩy nhiều chương trình phát triển vũ khí. Theo các chuyên gia, Bắc Triều Tiên có thể sẽ trở nên tự mãn và hiếu chiến hơn so với trước đây.
Thái độ của Nam Triều Tiên cũng đã thay đổi. Tổng thống mới Yoon Suk-yeol, được bầu vào tháng 5/2022, đã ưu tiên xét lại chính sách của người tiền nhiệm, ông Moon, nối lại các cuộc tập trận quân sự với Hoa Kỳ và tập trung vào chiến lược quân sự nhằm thủ tiêu lãnh đạo Bắc Triều Tiên trong trường hợp chiến tranh xảy ra. Kim đã mô tả chính quyền của Yoon là “những kẻ đối đầu điên cuồng“, và nhấn mạnh rằng Bắc Triều Tiên “hoàn toàn sẵn sàng ứng phó với bất kỳ cuộc khủng hoảng nào và lực lượng răn đe chiến tranh hạt nhân của nước ta cũng sẵn sàng huy động” nếu cần.

“Quan hệ liên Triều về cơ bản đã tan rã. Bầu không khí đang trở nên nóng hơn và cả Kim và Yoon đều tỏ ra không e dè về điều đó”, Daniel R. DePetris, thành viên tại Defense Priorities, một tổ chức tư vấn ở Washington, cho biết trong một chuyên mục của Nikkei Asia vào tháng 8/2022.
“Mối quan hệ liên Triều về cơ bản đã tan rã“
Daniel R. DePetris, thành viên của Tổ chức Ưu tiên Quốc phòng của think tank có trụ sở tại Washington
Leif-Eric Easley, phó giáo sư nghiên cứu quốc tế tại Đại học Ewha Womans ở Seoul, cho biết, “Xung đột với Bắc Triều Tiên không được định trước nhưng rủi ro ngày càng lớn”.
“Chế độ Kim bị thổi phồng quá mức về năng lực quân sự. Khi Bắc Triều Tiên chấm dứt tự phong tỏa bởi Covid, nước này có nhiều khả năng sẽ tiến hành lặp đi lặp lại các lần khiêu khích và thử nghiệm vũ khí hơn là lựa chọn ngoại giao“, Easley nói.
Biên tập viên Nikkei, Kim Jaewon, đóng góp phần này.
ẤN ĐỘ – PAKISTAN
Ấn Độ và Pakistan đã xảy ra bốn cuộc chiến kể từ khi có một cuộc chia cắt đẫm máu vào năm 1947, dẫn đến sự ra đời của cả hai quốc gia. Trong thế giới ngày nay, các chuyên gia tin rằng bất chấp sự thù địch của họ, Ấn Độ và Pakistan sẽ không xảy ra chiến tranh trong 5 năm tới.
Các nước láng giềng Nam Á này đã chiến đấu tại vùng lãnh thổ tranh chấp Kashmir vào năm 1948 và 1999. Ngoài ra còn có các cuộc chiến tranh toàn diện giữa Ấn Độ và Pakistan vào năm 1965 và 1971. Pakistan mất lãnh thổ phía đông, nay là Bangladesh, do hậu quả của cuộc chiến năm 1971.
Các chuyên gia tin rằng chiến tranh ít có khả năng xảy ra giữa Ấn Độ và Pakistan dù cả hai bên đều có vẻ căng thẳng.
Shuja Nawaz, một thành viên xuất sắc tại Viện nghiên cứu của Hội đồng Đại Tây Dương, có quan điểm rằng cả Ấn Độ và Pakistan đều không sẵn sàng cho một cuộc chiến toàn diện. Ông nói với Nikkei: “Họ cần phải thoát ra khỏi khó khăn về kinh tế do các sự kiện toàn cầu và sự quản lý yếu kém của họ. Ấn Độ đang tụt lại xa hơn so với đối thủ truyền kiếp Trung Quốc. Pakistan đang theo sát tốc độ tăng trưởng của Ấn Độ” ông nói với Nikkei.
Nawaz, cũng là tác giả của cuốn sách “Đấu kiếm: Pakistan, Quân đội và những Cuộc chiến”, nói thêm rằng leo thang căng thẳng hạt nhân là bất lợi cho cả hai và hậu quả của bất kỳ cuộc chiến tranh thông thường nào cũng sẽ rất lớn đối với thế giới.

Ayesha Siddiqa, một cộng sự nghiên cứu của Viện Nam Á thuộc Trường Nghiên cứu Phương Đông và Châu Phi, Đại học London, nói rằng chiến tranh giữa Ấn Độ và Pakistan ngày nay ít xảy ra hơn.
“[Cả Ấn Độ và Pakistan] đều không có ý định gây chiến hoặc khả năng chuyển hướng các nguồn lực từ hòa bình sang chiến tranh“
Ayesha Siddiqa, cộng sự nghiên cứu tại Học viện Nam Á của Trường Nghiên cứu Phương Đông và Châu Phi ở London
Ấn Độ cáo buộc Pakistan tài trợ khủng bố ở vùng Kashmir thuộc Ấn Độ, một cáo buộc mà Islamabad phủ nhận, đồng thời tuyên bố rằng nước này chỉ hỗ trợ về mặt ngoại giao và tinh thần cho phong trào ly khai trong khu vực.
Tuy nhiên, khả năng xảy ra đối đầu giữa những người hàng xóm gần đây dường như không tăng. Kondapalli của Đại học Jawaharlal Nehru chỉ ra rằng không có bất kỳ xung đột lớn nào kể từ cuộc không kích năm 2019 của Ấn Độ nhằm vào cái mà nước này gọi là các trại khủng bố ở Balakot, Pakistan.
Về khả năng xảy ra xung đột với Pakistan, Jha, thuộc Đại học Toàn cầu OP Jindal, cho biết ông không thấy điều này có thể xảy ra trong 5 năm tới “bởi vì điều kiện kinh tế của Pakistan đang ở trong tình trạng rất tồi tệ.”
Nhà báo Adnan Aamir và biên tập viên của Nikkei, Kiran Sharma đóng góp phần này.
AFGHANISTAN
Một năm sau khi Taliban tiếp quản đất nước, giao tranh lớn đã kết thúc nhưng sự cạnh tranh trong khu vực và cuộc khủng hoảng nhân đạo vẫn còn tiếp diễn.
Được biết đến với cái tên “nghĩa địa của các đế quốc“, Afghanistan năm ngoái đã dựng thêm một bia mộ cho đế quốc khác. Khi quân đội Mỹ rút lui sau hai thập kỷ chiếm đóng, Taliban tràn vào Kabul, giành quyền kiểm soát hoàn toàn đất nước trong một cuộc tấn công quân sự gây chấn động thế giới. Khi lá cờ trắng của họ được kéo lên phía trên dinh tổng thống vào tháng 8 năm 2021, Taliban đã mở ra chế độ độc tài, thần quyền làm gián đoạn việc giáo dục của trẻ em gái và buộc người dân nằm dưới sự cai trị của Hồi giáo cực đoan. Tuy nhiên, sau một năm Taliban cầm quyền, các chuyên gia quốc tế đã thừa nhận bạo lực tại quốc gia này đã giảm đi đáng kể.

Những người Afghanistan đã quen với cái chết và sự tàn phá – khoảng 20.000-40.000 người thiệt mạng mỗi năm, con số được cho là đã vượt qua Yemen, Syria và Iraq – nhận thấy bạo lực đã giảm xuống rõ rệt. Kể từ khi Taliban nắm chính quyền, Liên Hợp Quốc ước tính rằng bạo lực đã giảm xuống 18% so với mức trước đây, một dự báo được xác minh bởi Graeme Smith của Nhóm Khủng hoảng Quốc tế.
Một báo cáo của International Crisis Group cũng lưu ý rằng lượng người di cư trong nước buộc phải rời bỏ nhà cửa trong những năm trước đây thì nay cũng đã giảm mạnh, chỉ có 2 trong số 34 tỉnh báo cáo về tình trạng di dân mới.
Smith lưu ý rằng hai cuộc xung đột nhỏ trong nước tiếp tục âm ỉ – một ở phía đông và một ở phía bắc. Ông nói: “Chúng đã được giảm thiểu thành các cuộc xung đột địa phương so với trước đây khi toàn bộ đất nước loạn lạc trong chiến tranh” ông nói.
Tuy nhiên, đất nước này còn có những vấn đề khác: nạn đói ở một số vùng và tình trạng thiếu thuốc men tràn lan. Với việc Taliban hầu như không kiểm soát được nhiều khu vực, các nước láng giềng của Afghanistan – Pakistan, Iran, thậm chí là Trung Quốc – có thể cố gắng lấp đầy khoảng trống, một viễn cảnh mà trong quá khứ đã dẫn đến các cuộc chiến tranh ủy nhiệm.
“Chúng ta nên cố gắng tránh để các nước phương Tây tiếp tục các cuộc chiến tranh ủy nhiệm“
Graeme Smith, Nhóm Khủng hoảng Quốc tế
Asfyndyar Mir, một chuyên gia cao cấp tại Viện Hòa bình Hoa Kỳ, cho biết quốc gia có nhiều khả năng can thiệp vào Afghanistan nhất là Pakistan, quốc gia đang có vấn đề ngày càng tăng với phong trào dân quân địa phương, Tehreek-e-Taliban Pakistan: “Pakistan có thể thực hiện một số cuộc tấn công ở Đông Afghanistan. Vì vậy, điều đó có thể khiến bạo lực leo thang, ”ông nói.
Nhưng mức độ bạo lực như trước tháng 8 năm 2021 chỉ có khả năng xảy ra nếu Taliban tan rã, Mir nói thêm: “Đây có vẻ là một khả năng quá xa vời vào thời điểm này.”
Các chuyên gia chắc chắn Mỹ khó có khả năng hiện diện binh sĩ trở lại. Smith của International Crisis Group cho biết: “Tôi không thấy hứng thú lắm với điều đó.”
Smith nói với Nikkei rằng “chúng ta nên cố gắng tránh để các nước phương Tây tiếp tục các cuộc chiến tranh ủy nhiệm”. Ông hy vọng các quốc gia phương Tây sẽ loại bỏ “thói quen viện trợ nhiều tiền hoặc vũ khí hơn cho các tổ chức phi nhà nước ở Afghanistan.”
Smith cho biết thêm: “Chúng tôi đang đề xuất các giải pháp thay thế trong việc tham gia với Taliban, đặc biệt là với an ninh biên giới đòi hỏi sự tham gia của cả hai bên.”
Ông nói: “Ngoài nguy cơ phổ biến vũ khí mà người Mỹ bỏ lại có thể rơi vào tay kẻ xấu, cần có sự hợp tác của Taliban để ngăn chặn điều đó xảy ra”.
Nhà báo Kanika Gupta đóng góp phần này.
Biên tập: Charles Clover
Bài viết được lược dịch từ bản gốc: https://asia.nikkei.com/Spotlight/The-Big-Story/Confrontation-to-conflagration-Asia-s-six-likeliest-wars